Nội dung tác phẩm chủ yếu đề cập tới hiện thực đời sống từng lớp hiện đại với cách nhìn, cách nghĩ của giới trẻ

Các tác giả tiếp tái hiện hiện thực cách mệnh và hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc (từ năm 1945 đến năm 1975) cùng lịch sử kiên cường bất khuất và những truyền thống tốt đẹp của dân chúng ta.
Những tác phẩm có giá trị cao về nội dung, nghệ thuật của những cá tính sáng tạo độc đáo còn ít. Do đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo, quản lý VHNT hiện giờ là khuyến khích, khích lệ văn nghệ sĩ sáng tạo để có nhiều tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ảnh sâu sắc hiện thực sơn hà ta trong đấu tranh cách mạng, trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ chủ quyền giang san; khuyến khích các sáng tác về đề tài truyền thống yêu nước, các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như các đề tài phản ánh sự nghiệp đổi mới của sơn hà ta hiện; khuyến khích sự tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, hướng các tác phẩm tới các giá trị chân - thiện - mỹ, giàu tính nhân văn, phê phán sâu sắc các thói hư tật xấu, tệ lậu tầng lớp làm suy đồi đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Còn một bộ phận văn nghệ sĩ trẻ, có khả năng sáng tác, có tác phẩm, hiện giờ hành nghề tự do, không muốn vào Hội. Trong các chỉ đạo và quản lý cần nắm chắc tổ chức các Hội VHNT, song song phải thực hành các giải pháp về cơ chế, chính sách đối với văn nghệ và văn nghệ sĩ như Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển văn chương, nghệ thuật trong thời kỳ mới đề nghị.
Nhà văn ĐỖ KIM CUÔNG Phó chủ toạ trực Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam. Song song, vẫn tồn tại dai dẳng xu hướng thương mại hóa, tiêu khiển tầm thường ở một số lĩnh vực, chi phối một bộ phận công chúng âm nhạc, điện ảnh, sân khấu.
# Sự dao động hiềm nghi về lý tưởng và niềm tin về sự phát triển của giang sơn. Văn nghệ cũng tham gia phê phán khá mạnh mẽ những bị động trong tầng lớp như tình trạng mất dân chủ, tham nhũng, lộng quyền và lạm quyền, thoái hóa biến chất về lý tưởng, đạo đức, lối sống vị kỷ, không nghĩa tình, chạy theo đồng tiền và lợi. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đúng vai trò của VHNT góp phần củng cố trận địa tư tưởng của Đảng.
Các báo, tùng san văn nghệ từ trung ương đến địa phương, do kinh phí ít, tự bươn chải, nên chưa quảng bá được đến công chúng. Trên cơ sở đó, từ trung ương đến địa phương cần củng cố tổ chức các Hội VHNT; bố trí cán bộ làm công tác VHNT nắm vững quan điểm, đường lối, các chính sách về văn hóa, văn nghệ của Đảng và quốc gia; hội tụ được hàng ngũ văn nghệ sĩ, động viên sáng tác để có được những sản phẩm văn hóa, văn nghệ tốt phục vụ quần chúng.
Trong hoạt động sáng tạo VHNT từ khi có NQT. Quy định hệ số lương của nghệ sĩ biểu diễn (xiếc, múa, sân khấu) chưa tương xứng với đặc thù nghề bởi vậy anh chị em còn nhiều khó khăn trong cuộc sống, ảnh hưởng đến niềm đam mê sáng tạo, cống hiến trong hoạt động nghề nghiệp.
Một số ngành nghệ thuật như ca múa nhạc, điện ảnh bước đầu quan hoài cuốn lực lượng văn nghệ sĩ Việt Nam yêu nước tiến bộ đang định cư ở nước ngoài về nước dự sáng tác, trình diễn, phát huy những giá trị truyền thống văn nghệ của cộng đồng dân tộc Việt Nam; thực hiện hợp tác giao lưu văn hóa với nước ngoài qua dịch thuật, xuất bản, lưu diễn, tổ chức trại sáng tác quốc tế ở Việt Nam và dự các liên hoan văn nghệ, các cuộc thi trình diễn ở nước ngoài.
Văn nghệ cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, cái mới tiến bộ, tạo lập những tấm gương tiêu biểu của con người thời đại: người lao động sáng tạo (công nhân, dân cày, trí thức), những người làm giàu chân chính cho giang san (thương buôn, nhà doanh nghiệp, nhà kinh dinh), bảo vệ đất nước và giữ giàng an ninh từng lớp (đội viên lực lượng vũ trang, công an quần chúng.
Báo, tùng san, nhà xuất bản của các Hội còn gặp nhiều khó khăn trong phát hành, xuất bản mà chưa được tháo gỡ, giải quyết ăn nhập tình hình mới. Sự kết hợp giữa các Hội văn chương nghệ thuật với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ trong việc thẩm định, đánh giá, tư vấn các vấn đề hệ trọng đến VHNT.
Trong nghiên cứu, lý luận, phê bình, cùng với quá trình đẩy lùi khuynh hướng phủ nhận thành tựu của văn nghệ cách mạng, kháng chiến, việc bền chí bảo vệ và phát triển đường lối văn chương nghệ thuật của Đảng cũng được tăng cường. Về đội ngũ sáng tác, các văn nghệ sĩ đã được đảm bảo tự do sáng tạo, được chú trọng bảo vệ bản quyền về sáng tác, trình diễn.
Tác phẩm của họ tự xuất bản, tổ chức biểu diễn, làm phim theo đơn đặt hàng của các hãng tư nhân. Một số đề án về Văn học nghệ thuật đã được Thủ tướng Chính phủ duyệt nhưng đến nay vẫn chưa được bộ, ngành thể chế hóa cụ thể. Trước tình hình có nhiều diễn biến phức tạp, nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương, phần lớn anh chị em văn nghệ vẫn tin cậy vào sự nghiệp đổi mới và những quyết sách của Đại hội Đảng lần thứ XI vạch ra; kiên trì, nhiệt huyết với công việc sáng tạo của người nghệ sĩ, gắn bó với các giá trị truyền thống yêu nước và cách mệnh, khẳng định các giá trị đạo đức, nhân bản của dân tộc, góp phần quan yếu cho sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Hoạt động sáng tác còn có trình diễn. Việc Chính phủ tiếp tục "hỗ trợ cho các công trình văn chương nghệ thuật và báo chí giai đoạn 2011 - 2015", đặt hàng các tác phẩm VHNT, thật sự là nguồn động viên đối với văn nghệ sĩ và báo chí cả nước.
Trong chỉ đạo điều hành còn thiếu sự quan tâm đúng mức đến việc kiện toàn mô hình tổ chức các Hội VHNT ở địa phương, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các Hội còn nghèo nàn, kinh phí phục vụ cho hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Quản lý Nhà nước về hoạt động VHNT còn buông lỏng, nhất là hoạt động xuất bản, biểu diễn.
Còn hạn chế. Việc xét tặng giải thưởng hằng năm của các Hội VHNT địa phương còn chưa hợp nhất do còn gặp khó khăn về ngân sách. Tác phẩm ít có chiều sâu về tư tưởng, giá trị nhân bản nhưng lại được các cơ quan truyền thông quảng bá rộng rãi có tác động không nhỏ đến gu thẩm mỹ của công chúng, nhất là tầng lớp bình dân và giới trẻ.
Cần có thái độ ứng xử đúng, đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác quản lý VHNT là công chức.
Tuy nhiên, quá trình đó cũng biểu lộ những hạn chế nhất quyết, phần nào chưa bắt kịp những biến động tầng lớp và tình hình phát triển của đất nước, thiếu vắng các tác phẩm có giá trị cao về nội dung, nghệ thuật, trong khi công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ còn một số bất cập.
Đề nghị Bộ Nội vụ có sự chỉ đạo trong ngành, giải quyết biên chế đủ cho các Hội VHNT chuyên ngành Trung ương và các hội địa phương, cụ thể trước mắt là Hội Liên hiệp văn chương nghệ thuật Hà Nội, Liên hiệp các Hội văn chương nghệ thuật TP Hồ Chí Minh với biên chế tối thiểu là 25 đến 30 người và ở các Hội VHNT các tỉnh, thành thị từ 12 đến 15 biên chế.
Bên cạnh đó, trận mạc văn nghệ thời kì qua còn biểu đạt những nhược điểm. Một bộ phận lớn văn nghệ sĩ (những người đã có tuổi, gắn bó với cách mạng và kháng chiến) là lực lượng nòng cốt trong các Hội văn chương nghệ thuật vẫn giữ vững được ý kiến sáng tác của Đảng.
#). Vật chất thiển cận. Trước tiên là giải quyết chế độ phụ cấp cho các cán bộ đang công tác ở các Hội VHNT như các cơ quan hành chính khác.
# Dễ dãi ưng với tình trạng nghiệp dư, "ăn xổi ở thì", chiều theo gu, thậm chí lập dị, ngộ nhận dưới danh nghĩa các trào lưu thời thượng như: hậu hiện đại, giải cấu trúc, đại tự sự.
Cá biệt có văn nghệ sĩ chưa đề cao bổn phận tầng lớp, công dân, suy giảm lòng tin vào sự nghiệp cách mệnh, trình diễn. Kiên quyết đẩy lùi các khuynh hướng nghệ thuật phản dân tộc, các bộc lộ của "diễn biến hòa bình" trên chiến trận VHNT. Biên chế, cơ sở vật chất của các Hội VHNT ở Trung ương và địa phương phải đủ mạnh để thực hành công tác VHNT và phải xem công tác này là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và của các cấp ủy đảng, chính quyền.
Ư 5, về căn bản, các tác phẩm văn nghệ đã đi đúng hướng, đề đạt hiện thực xây dựng và bảo vệ giang san XHCN hôm nay. Biên chế cũng như ngân sách hoạt động cho các Hội còn thấp so với nhiệm vụ được giao.
Biểu diễn nghệ thuật trong Ngày thơ Việt Nam. Công tác văn hóa, VHNT chỉ thực thụ đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền chính trị của Đảng và Nhà nước khi nâng cao được nhận thức cho các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ; xác định rõ mô hình tổ chức Hội VHNT là một sực quan yếu trong công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng và quốc gia.
Thời gian tới, các bộ, ngành liên can như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các ban của Đảng cần phối hợp xây dựng cơ chế chính sách về mặt tổ chức cho hoạt động VHNT.
Chủ trương của Đảng và quốc gia ta là phát triển VHNT trong cơ chế thị trường, định hướng XHCN, do vậy hoạt động VHNT cần có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của quốc gia. Tuy kinh phí hỗ trợ còn ít nhưng đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho các hoạt động văn nghệ của cả nước, nhất là đối với các địa phương có mức thu nhập thấp và vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Các cấp ủy, tổ chức đảng xây dựng chương trình hành động cụ thể, với nhiều đề án can hệ đến VHNT để tổ chức thực hiện, quan tâm bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ, đầu tư kinh phí, nắm bắt tâm sự, diễn biến tư tưởng của văn nghệ sĩ để có biện pháp lãnh đạo kịp thời, tạo không khí kết đoàn, đồng thuận, tán đồng cao trong từng lớp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét