Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Lên Buôn Ma Thuột, cà phê với Đặng Lê Nguyên tất cả Vũ

Vũ đến với cà phê, ban đầu chỉ nhằm kiếm tiền, đánh tháo bản thân và gia đình khỏi cái nghèo. Nhưng càng gắn bó, càng tìm hiểu cà phê, ông càng thấy nó thiêng liêng và huyền bí. Cà phê vận chuyển một triết lý, một tư tưởng sống chứ không chỉ là thức uống cho dạ dày.

Cà phê là biểu đạt sinh động cho kiến thức, sức sáng tạo. Cà phê đối với vị chủ toạ Trung Nguyên mê đắm, thần diệu và đáng ngưỡng vọng như một “Nữ thần Đen - Nữ thần Sáng tạo” đến nỗi mà ông ra cả “tuyên ngôn cà phê” và “thuyết giáo cà phê” trong đó có phát hiện lớn về sự bất công đối với các nước trồng cà phê.

Thậm chí ông còn khởi xướng dự án không thể tin nổi: Thánh địa cà phê toàn cầu. Cùng với đó, ông lại thao thức với công thức thành công cho cả thảy cá nhân chủ nghĩa và nhà nước. Nỗi thao thức đó càng mãnh liệt trong bối cảnh, điều kiện để Việt Nam hội nhập như hiện nay.

Ông là mẫu người đã nói là làm - không “nói cho đã mồm”. Ông không chấp nhận sống chung với sự manh mún, hay hô khẩu hiệu suông. Ông luôn cổ động cho "một Hoài bão, ba Tinh thần".

Trong đó, một Hoài bão là: Việt Nam trở nên một nhà nước đi đầu, chinh phục và ảnh hưởng; còn ba Tinh thần là: Chiến binh, lái buôn và Sáng tạo. Ông xác định 3 mục tiêu phải làm cho bằng được trong đời người: Toàn cầu hóa Trung Nguyên; Đóng góp vào chiến lược nhà nước cho một Việt Nam hùng mạnh; đeo đuổi thuyết giáo Cà phê trên phạm vi toàn cầu.

Mới nghe Đặng Lê Nguyên Vũ nói có lẽ nhiều người “phát ngán”, nhưng nghe kỹ thì thấy hay, càng nghe càng thấy có nhiều thứ có lý. Nghiên cứu lịch sử của nước ta và nhiều nước khác, ông nhận ra rằng, điểm chí tử của các dân tộc ít thành công là văn hóa Thái Âm - thiếu niềm tin lớn, không có khát vọng lớn, không có tư tưởng gây ảnh hưởng, không dám tranh tiên đi đầu.

Ông nói, chưa bao giờ thế giới trở nên khó lường như ngày hôm nay với hàng loạt khủng hoảng đan xen toàn cầu về biến đổi khí hậu, kinh tế - tài chính, năng lượng, lương thực, nghèo đói, dịch bệnh, xung đột sắc tộc - tôn giáo, đối đầu chính trị - quân sự, khủng hoảng nhân văn và đạo đức tầng lớp, hiểm họa khủng bố, khí giới giết người hàng loạt...

Đây là chỉ dấu của khủng hoảng toàn diện, đan xen và trầm trọng, khủng hoảng về hệ giá trị phát triển, ngay cả đối với các quốc gia thành công nhất. Hơn bao giờ hết, toàn thế giới cần phải Tư Duy Lại, Thiết Kế Lại và Vận Hành Lại. Nhân loại có được nền văn minh như hiện tại là nhờ óc sáng tạo, “Không có sáng tạo, không có lịch sử”.

Theo ông, lịch sử loài người được chia làm 3 thời kỳ chính: Sáng tạo để Thích nghi, Sáng tạo vì Lòng tham và giờ đây phải là Sáng tạo có trách nhiệm. Sáng tạo vì lòng tham và hãnh tiến đã tàn phá thế giới trong mấy trăm năm gần đây. Có 4 cấp độ quốc gia thành công: Thống nhất giữa dân tộc với quốc gia; Trở thành quốc gia độc lập - hùng mạnh; Trở thành quốc gia mấu chốt trong nền văn minh; và một nền văn minh dẫn dắt thế giới. Chúng ta đều đang có vấn đề tại 4 cấp độ này.

Muốn đạt được các cấp độ đó, chúng ta cần thấu hiểu mình, hiểu bạn bè, hiểu đối tác và hiểu kẻ thù cũng như hiểu xu hướng chủ lưu của thời đại. Trong đó, quan yếu nhất là ta phải hiểu rõ chân tơ kẽ tóc bản thân mình. Chúng ta có thừa điều kiện để hiện thực hóa.

Nhưng muốn làm nên, nhóm nhân công dẫn dắt Việt thiết yếu cần có cùng khát vọng, tầm nhìn, đồng tâm và quyết tâm cao độ; cả thảy chúng ta đều phải dốc sức hùng tâm cho các mục tiêu; Chúng ta sẽ thành công nếu chọn lựa đúng chiến lược, có phương pháp đúng, và thực thi thông minh.

Ông cho rằng, nếu là một nhà nước hợp nhất thì phải có sự Thống nhất giữa nhà nước và dân tộc. Có ý thức họ và tông tộc thì phải có Tinh thần quốc tộc - tức Tinh thần quốc dân.

Sở dĩ thế giới đang khủng hoảng bởi chưa thoát khỏi cái bóng tư tưởng kinh tế cực đoan cũ của Adam Smith, Keynes, cho đến thuyết địa chính trị Mackinder, thuyết giáo biển Mahan; triết lí quyền mưu đối đầu của Tôn Tử, Clausewitz, Machiavelli; thuyết giáo cạnh tranh sinh tồn Darwin, thuyết dân số thụ động Malthus cũng như các học thuyết mang tính đối kháng về ý thức hệ và các đạo có vũ trụ quan, nhân sinh quan cũ. Những tư tưởng hướng về triệt tiêu này tiếp chuyện là cội rễ để tạo thành các phân cực đe dọa lẫn nhau.

Hơn bao giờ hết, chúng ta cần có niềm tin rằng, toàn thể nhân loại hoàn toàn có thể tạo ra một thế giới hài hòa và cùng phát triển bền vững với những lợi ích mang tính phổ thông và không loại trừ lẫn nhau. Và chìa khóa không gì khác chính là Tinh thần Cà phê thần tình.

“Triết lí Cà phê” ra đời với hạt nhân là Tinh thần Cà Phê - Sáng tạo có nghĩa vụ. Tinh thần Cà phê phát biểu rằng: Mọi người ai cũng có thể thành công; muốn thành công cần có sáng tạo; cà phê kích xúc sáng tạo; nhưng sáng tạo cần có một số điều kiện nền móng về văn hóa và chính trị.

Từ ý thức nhân văn đó, có thể nói cà phê là năng lượng của nền kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo, kinh tế bền vững, giúp kiến tạo thế giới mới. Có gần 3 tỉ người yêu và mê say cà phê trên toàn cầu, xuyên tôn giáo, văn hóa, địa lý, thể chế chính trị. Đây là một lực lượng sáng tạo hùng hậu, và nếu họ hướng tới sáng tạo có nghĩa vụ thì thế giới sẽ khôn xiết tốt đẹp.

Ông nói, giờ đang là thời khắc giao thoa giữa nguy cơ ngàn năm và cơ hội ngàn năm mà chúng ta cần đổi thay để chộp lấy cơ hội hội nhập.

Một là, tuốt luốt thế giới đang rơi vào khủng hoảng chung, và bản tính của cuộc khủng hoảng đó là khủng hoảng tài nguyên tự nhiên và không gian sinh tồn cho loài người.

Hai là, thế giới đang bị chi phối bởi các tư tưởng đối đầu cưc đoan triệt tiêu lẫn nhau.

Ba là, nối có xung đột, tranh chấp đối với các nguồn lực phát triển.

Bốn là, loài người vẫn theo quán tính tư duy cũ của nhị nguyên luận dẫn đến phân tranh.

Năm là, vấn đề lớn nhất của loài người hiện là khủng hoảng niềm tin.

Những mối nguy chung đó đáng báo động ở cấp cao nhất. Đích của ông là rõ ràng và liên hoàn: “Đoàn kết dân tộc – hợp nhất ASEAN – tụ họp thế giới”.

Việt Nam có đầy đủ điều kiện để thực thi chiến lược định vị trọng điểm. Đây là thời đại mà các thế lực chuyển dịch trọng điểm từ Tây sang Đông, là nhịp để ta xúc tiếp trọn vẹn với thế giới.

Căn cứ theo thuyết “Chuỗi giá trị” và triết lí Biên giới mềm, ông cho rằng, những nước nhỏ yếu hay những dân tộc tiêu thụ luôn ở phân khúc thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. “Với những nguyên chiến lược dồi dào, chúng ta phải thắng cuộc chiến kinh tế này. Tại sao không!", ông tin tức.

Mong ước của ông là một Việt Nam hùng mạnh, ảnh hưởng, một Việt Nam có một sứ mệnh với thế giới. “Người khác làm được thì ta làm được. Dân tộc khác làm được thì dân tộc ta làm được. Nước khác làm được thì Việt Nam làm được và còn làm tốt hơn”, ông nói thêm: “Khi cùng nhau, không gì là chẳng thể”.

Nếu là một thân hữu của ông, bạn sẽ thấy ông luôn trăn trở về “một Việt Nam hùng cường, vĩ đại và ảnh hưởng”. Có thời kì ông lui về nông trại, khóa chặt cửa cả năm ròng, đêm đêm làm bạn với cà phê, nghiền ngẫm một lối đi đặc sắc hơn và sáng dạ hơn cho giang sơn, điều đã lấy đi nhiều năng lượng của ông. Ông yêu thích tư duy “dựa lưng vào núi, tiến ra biển cả”.

Theo ông, tư duy này là đáng suy ngẫm , đây là một tư duy liên quan mang tính chất phát hiện. Hàng nghìn năm qua, dân tộc ta đã tư duy khu trú, vọng nội, cát cứ.

Tư duy mở cửa giao thương với thế giới chính là trình diễn.# Cụ thể nhất của Tinh thần chinh phục, khám phá và hướng ngoại cũng như Tinh thần trọng thương - điều vắng bóng trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước. Tư duy biển là tư duy thượng tôn thương nghiệp, thượng tôn giao lưu, buôn bán, bàn luận. Ý thức nhà buôn là chìa khóa của chúng ta. Kinh tế phải là trọng tâm của mọi chính sách.

… Nhưng chính những ý tưởng đó chừng như đã khiến Đặng Lê Nguyên Vũ trở thành cô độc. Lẽ giản đơn là nhiều người không “cảm” được cái “cá biệt” của vị CEO của Trung Nguyên.

Ông cô đơn bởi ông chọn cho mình một lối đi riêng cùng nỗi ưu tư và phương pháp luận không giống ai. Nhưng trong những cơn bão tố búa rìu dư luận, ông vẫn mặc nhiên như… Tinh thần Cà phê.

Tất nhiên, ông có những nhược điểm mang tính con người. Nếu bạn là người quá mẫn cảm thì hẳn bạn sẽ khó chịu khi tiếp xúc với ông, có ấn tượng tuồng như ông quá lạnh nhạt.

Thậm chí thỉnh thoảng ông cực đoạn đến mức kiêu bạt áp đặt cả quan điểm của mình không thèm tính đến phản ứng của người đối diện. Nhưng đó chính là Đặng Lê Nguyên Vũ.

Tôi xúc tiếp với ông ở nhiều giác độ rất đời. Nếu tinh ý bạn sẽ cảm nhận không phải ông là người khô mà thực ra ông rất giỏi che giấu xúc cảm.

Theo ông, nếu ai cũng lo cho mỗi bản thân, lo kiếm tiền theo kiểu “vinh thân phì gia” thậm chí còn làm nghèo sơn hà thì “khác gì loài cầm thú”? Trong cuộc trò chuyện, đôi khi mắt ông quắc lên dữ dội. Ánh mắt ấy, cùng với hình tướng và thần thái bạo liệt của ông, khóa chặt và ám ánh bất kỳ đối phương nào.

Những lời nói của ông như toát thẳng từ cõi lòng liền tù tù của một người đàn ông khí khái, không quen nói lời hoa mỹ.

Và, có nhẽ khó khăn lớn nhất khi gặp ông chính là phải chia tay ông. Trong chầu cà phê tiễn đưa buổi chiều muộn, ông nhấp một ngụm đắng gắt, rít khói thuốc, đăm chiêu phóng tầm mắt về phía đường chân trời, nơi từ trong mù sương hiển lộ ra dãy núi cao nguyên M’drắk hình yên ngựa hùng vĩ cùng một con đại bàng trật đang dang cánh dũng cảm, nhìn ngắm trần thế từ trên đỉnh cao vời vợi.

Ông không giấu được vẻ đơn chiếc buồn bã vì thiếu người sẻ chia.

Buôn Ma Thuột, 6.2013

(*) Chủ tịch Hội đồng quản trị Tâm Việt Group

TS. Phan Quốc Việt


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét