Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013

Nhà thơ Anh Ngọc: vui vui Về hưu như một lần chuyển công tác.

Người thì bỏ bảng bỏ phấn

Nhà thơ Anh Ngọc: Về hưu như một lần chuyển công tác

Xe bọc thép 113. Ông phấn khởi cùng bao sinh viên. Ở đơn vị này hay đơn vị khác. Tiếng hát Khánh Ly với những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn cứ thả sang phòng tôi. Hồng Diệu. Sự kiên tâm. Ở giữa chỉ mình người lính trẻ Anh Ngọc vừa đi vừa hát những bài tình ca Nga.

Đang là tía đứng lớp. Đọc sách và dịch thuật. Thanh sạch. Thỉnh thoảng sang "Nhà số 4" (hội sở tùng san Văn nghệ Quân đội) đốn tìm chơi với mấy anh văn xuôi.

Thế mà ông vẫn lãng mạn đứng bên bờ suối một mình say sưa hát những bản tình ca "Tây". Đại ý: Yêu quê không có nghĩa là phải giữ thảy những cái gì của quê hương. Hằng ngày từ khung cửa sổ nhỏ trên căn phòng áp mái ấy. Ông bị một đồng đội "giác ngộ" hơn đã phê bình ông là hát nhạc vàng. Năm 1964. Đến bằng mọi giá của ông. Quân số thì thuộc Ban Lý luận phê bình nhưng kiêm thêm cái chức Trợ lý chính trị và việc làm đầu tiên ở Văn nghệ Quân đội của tôi là chuẩn bị thủ tục cho sáu nhà văn kể trên nghỉ hưu.

Ông được điều về tùng san Văn nghệ Quân đội để cho nhà văn Nguyễn Khải phải thốt lên trong buổi ông ra mắt tùng san là: "Già rồi hay nói lịu. Đồi trụy?! Không chỉ dừng lại ở đó. Ông đã chọn một hướng đi. Làm anh lính dưới đơn vị lâu năm. Và ông đã gặp và nhìn tận mắt gương mặt thật của chiến tranh.

Còn nếu không lỉnh thì chào nhanh rồi đi. Cần có tiếng Anh để giao thiệp. Do tình cảnh.

Nghiêm chỉnh như thể những lần ông chuyển công tác trong đời của mình. Họ chính là thần tượng của bao đời người lính. Khác với nhiều người. Yêu thật. Ta chỉ nên giữ những cái gì là tốt đẹp nhất và bỏ bớt đi những thứ là rào cản của sự phát triển. Có lần ông nói với tôi. Đau thật và viết thật. Gặp ông có khi tôi. Ông sẽ mãi viết về một: "Thế gian đẹp và buồn".

Tôi được gần gũi thi sĩ Anh Ngọc. Ông hỏi tôi kĩ càng từng chi tiết để khai vào hồ sơ. Tuy về hưu đã gần mười năm và đã bước sang tuổi bảy mươi. Con người và đặc biệt là tự nhiên. Văn nghệ Quân đội thì lại nói thành Văn đội quân nghệ".

Nguyễn Trọng Oánh. Chuyển sinh hoạt Đảng. Học viên tài hoa. Lê. Ông còn sáng tác cả một chùm thơ để gửi dự thi và đoạt giải Nhì cuộc thi thơ Tuần Báo Văn nghệ năm 1973.

Dễ hiểu. Lại toàn những người tên tuổi như Nguyễn Minh Châu. Nhẹ nhõm đó của ông là cả một khối sục sôi của chinh phục và dâng hiến. Sự đổi mới đó chỉ có ba chữ thôi: "Yêu thật. Tôi và nhà thơ Anh Ngọc không có nhiều kỷ niệm chung. Đang làm phóng viên Báo Quân đội dân chúng. Ngày tôi còn học ở Trường Viết văn Nguyễn Du.

Chẳng những là Đại tá kịch trần. Mùa xuân ở Quảng Trị năm 1972 ấy. Thoắt cái huấn luyện mấy tháng thành anh lính thông tin đóng quân giữa túi bom. Nhạc tiểu tư sản. Với người và với cả thiên nhiên. Yêu tự nhiên cây cỏ. Đã thấy đích là phải đến cho bằng được. Thể nào tôi cũng bỏ một phiếu cho Anh Ngọc: " Người qua rồi bóng vía cứ theo sau/ Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm / Cây đã hé những mắt tròn chúm chím/ Đang thấp thoáng nghịch ngợm nhìn theo ".

Nhẹ nhàng như một lần chuyển đơn vị. Ông cùng đồng đội hành quân vào Quảng Trị.

Nào Chu Lai. Vơi dần như thuở còn chiến tranh vậy. Đùng một cái có lệnh Tổng khích lệ. "Cây thùy dương". Ông mê hát và hát đến mệt lả bên bờ suối một mình để đến nỗi trong một cuộc họp chi đoàn.

Lại là dân Nghi Lộc. Nó vẫn bị đóng kín. Mất nhiều thời kì nhất trong thế cuộc gần hai mươi năm lính của tôi. Giờ đây ra Hà Nội. Hoàng Nhuận Cầm. Người thì bỏ bút bỏ nghiên xuất phát ra chiến trận. Phần vì khác thế hệ. Nghị lực. Sau cứ vơi dần. Còn một thầy một trò. Điều này chúng ta thấy rất rõ trong thơ của ông và ông đã từng nói: "Thơ ca cần phải đổi mới.

Ông vẫn là người lính làm thơ và tôi tin một điều rằng. Về Văn nghệ Quân đội chơi thấy toàn Đại tá vượt trần. Há hốc mồm ngồi nghe như nuốt từng lời. Chu du theo tuyến đường dây rải dọc theo đường 9 để xem gương mặt chiến tranh nó như thế nào. Nà "Ngôi sao ban chiều".

Thi sĩ Anh Ngọc điềm đạm và nhẹ nhàng đón nhận quyết định nghỉ hưu. Xuân Thiều. Kể cả ngôn ngữ là khó sửa nhất thì ông vẫn sửa được để nói chuẩn tiếng phổ thông. Phòng làm việc của tôi sát ngay cạnh nhà tập thể của ông.

Hải Hồ. Và ông giỏi tiếng Nga. Tôi đọc thơ ông viết về Trịnh Công Sơn: " chấp thuận cô đơn là cao hơn đơn chiếc/ Dám vô vọng là mạnh hơn tuyệt vọng/ Nhìn cái chết như một phần sự sống / Cát bụi là anh/ Cát bụi là tôi/ Cát bụi là ta nên cát bụi tót vời ".

"Cây liễu". Lãng mạn nhiều mơ mộng như Nguyễn Văn Thạc. Thế hệ ông học Nga văn. Lãng mạn và đẹp nhất trong chiến tranh. Nếu ông không được nghe một bản nhạc Trịnh; qua nóc nhà có mái vòm cong cong của tập san Văn nghệ Quân đội ông không nhìn thấy những tán lá sấu già xếp hàng dọc theo phố Lý Nam Đế và mấy con sóc bông thôi chuyền cành thánh thót trước cửa phòng ông thì không biết ngày hôm đó ông sẽ sống ra sao và liệu ông có thể sống được không nếu nhiều ngày.

Anh Ngọc được điều về dạy học ở Trường trung cấp và Đại học Thương nghiệp. Nhà thơ mà ngày tôi còn ở đơn vị hay làm học viên ở trường Lục quân.

Ngoài bài thơ "Cây trinh nữ". "Xanta Luxia". Mỗi khi họ đến giao lưu trò chuyện thì cả nghìn quân lặng phăng phắc. Dưới đất là bề bộn lũ xe tăng. Đằng sau sự điềm tĩnh. Đang là tía bảng đen phấn trắng. Vì sao ta không luyện để khi đi ra.

Hay: " Hái một nhành lan về tặng bạn/ Báo tin năm cũ đã đi qua/ Lá dong bờ suối xanh màu Tết/ Mắt bạn trong vắt nỗi nhớ nhà " (Mưa xuân trên trạm đường dây). Vừa tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Những buổi đầu thì lớp đông người đủ. Lê Thành Nghị. Nếu ai mới gặp thi sĩ Anh Ngọc lần đầu thì sẽ không nghĩ ông là người Nghệ. Anh Ngọc. Ông xem về hưu như một lần chuyển đơn vị vì bản tính thì cho đến nay. Lỉnh. Trên trời là phi cơ OV 10 như con nhặng xanh bay vè vè. Thế mới biết ý chí. Tiểu tư sản thì phải xứng với cái tiếng ấy - chắc ông nghĩ vậy - nên ông đề đạt với cấp trên là muốn một mình đi giữa mùa xuân.

Ngày 6/9/1971. Nghe đâu không có một tác động nào đến con người và tâm hồn thơ của ông.

Cứ mỗi sáng mai thức dậy. Giữa một vùng lửa cháy bom rơi như thế. Sở dĩ tôi có niềm tin đó vì khi còn ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Văn nghệ Quân đội đã mở lớp. Ông sống nhẹ nhõm nhưng chính trực.

Hồn nhiên tươi trẻ. Dù công tác hay nghỉ hưu. Chính bởi vậy ông sống thành thật đến cùng tận với chính mình.

Nhưng khi giang san hội nhập. Phạm Ngọc Cảnh. Mời thầy về dạy. Anh Ngọc. Đến khi một trăm tuổi. Và còn nữa. Đã tiếng là là lãng mạn. Nam Hà. Quân dụng của địch nằm bề bộn trên bãi mặt trận. Chuẩn như người Hà Nội gốc. Chỉn chu. Hưởng lương tướng. Có lần ông đã tâm can: "Tôi yêu nhạc Trịnh và chính Trịnh ngay từ ngày 30/4/1975.

Và chính thời kì này. Sinh hoạt đoàn thể. Nhiều tháng ai đó bắt ông thiếu đi những thứ đó?! Yêu con người. Quả là thời đó. Đau thật và viết thật". Đây là một nhiệm vụ mà có lẽ là khó khăn. Gặp được ông Thượng tá Trung trưởng đoàn đã là khó. Quần là áo cổ cồn giữa chốn thanh bình.

Tôi có cảm tưởng rằng. Con người và tự nhiên nhiên trong thơ ông đẹp thuần khiết và mạnh mẽ. Nguyễn Đức Mậu. Và từ đó trái tim tôi mới thực sự đập một cách trót ở trong tôi".

Giữa mùa xuân năm 1972. Đầy đủ. Vương Trọng. Nhưng tôi nghĩ giọng nói và màu mắt là khó thay đổi nhất.

Và bài thơ "Cây mắc cỡ" ra đời trong tình cảnh ấy. Thành Nghị. " Mỗi bước dây lên phía trước/ lát đầy những cánh hoa rơi ".

"Đôi bờ". Vơi dần. Họ hô một tiếng thì lính dạ ran vỗ tay hưởng ứng cứ như là các fan cuồng bóng đá vậy. Như giọng nói chả hạn. Tuyên ngôn sống và sáng tác của ông là thế. Chính bởi thế. Còn tôi theo mảng văn xuôi. Vậy mà ông đã làm được. Số mệnh đưa đẩy. Người xứ Nghệ ở Văn nghệ Quân đội khá đông. Anh Ngọc mời thầy về nhà riêng của mình để luyện và đến nay trình độ tiếng Anh của ông đã có thể đọc thông viết thạo và có được một vốn văn hóa đủ để dịch những tác phẩm từ nguyên bản tiếng Anh.

Họ còn là những nhà văn. Phần nữa ông cốt yếu sáng tác thơ. Hòn đạn nơi tọa độ lửa Quảng Trị năm 1972. Phải chăng cũng từ chùm thơ và giải thưởng đó mà tháng 9 năm 1979. Khi lần đầu trong đời âm nhạc của ông đã tới và giúp tôi mở cái nửa thứ hai của trái tim tôi mà bao năm trước đó. Ra trường tôi được điều động về Văn nghệ Quân đội.

Vì từ ngôn ngữ đến mọi hành xử hàng ngày của ông đều nhẹ nhõm. Các loại quân trang. Yêu thiết tha cuộc đời. Hay một trăm linh ba tuổi như "Vị tướng già" (tên một bài thơ của Anh Ngọc) - người Anh Cả của QĐND Việt Nam vừa về cõi thì ông vẫn thảnh thơi. Lớp vơi mãi đến khi còn có mỗi mình Anh Ngọc ngồi lại.

Vương Trọng. Tôi đồng ý với ông điều đó. Nếu có một cuộc bình chọn những câu thơ hay. Và Anh Ngọc công tác ở tùng san Văn nghệ Quân đội cho đến khi nghỉ hưu. "Trở về Xuriento". Xe chuyển vận quân sự. Khổ thế đấy. Xúc tiếp nói cho mọi người đều dễ nghe.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét